Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong
kiến – một xã hội thối nát, suy thoái. Chính vì thế mà ông có dịp hiểu
biết về lối sống phong lưu xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều
kiện dùi mài kinh sử. Ông được tiếp thu truyền thống học tập và sáng
tác của cả gia đình, tạo cho ông vốn học vấn Nho học uyên thâm, lối sống
tao nhã, khiến ông hiễu rõ về tầng lớp phong kiến . ‘’Truyện Kiều’’ còn
có tên Đoạn Trường Tân Thanh là một trong những sáng tác chính của ông.
Bên cạnh đó ‘’Nỗi Thương Mình’’ là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài
năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần
nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai
mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi
nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận
bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên
lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm
ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất
có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước
ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú
Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều
lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng
ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem
tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo
sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những nàng vô cùng buồn
tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp
hồng nhan.Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng
và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội
tâm dầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở
đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận
mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân
mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá
khứ.
Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ
đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô
bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh.
Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh
bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp
khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là
đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi
triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy
đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra. Bằng
những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười
suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc,
Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu ND cho thấy
tình cảnh của TK tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao,
phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày K phải làm công
việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui. Điều này cho ta thấy
rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của TK. Bút pháp ước lệ
giúp ND không tránh né số phận thực tế của TK mà vẫn giữ được chân dung
cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm trhông của
tác giả đối với nhân vật.
ND đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập
nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say,
trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả
trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô
hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã
mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ.
Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất
tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho
sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ
có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật,
mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng
giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng
cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh
có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình
thường , trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một
tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn
che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của
Kiều trong những ngày tủi nhục , nỗi ê chề , sự ép buộc , đày đọa mà
Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu
lúc tàn canh” Kiều mới có một khoẳng khắc hiếm hoi để sống thực với
chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con
người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm
xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển
sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã
diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn TK. Nàng bàng hoàng đau xót
trước thực tại phủ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau
đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình. Giật mình ko chỉ
là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào
đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong
mà nếu ko có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh
lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác
và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự
yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa
vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một
câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của TK ý thức được về phẩm
giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền
sống của con người trong lịch sử phong kiến mà ND muốn truyền tải đến
người đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nổi tủi nhục của Kiều thì
những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập
thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết
mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến
chuyển nhanh chóng đế mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt.
Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và
nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự
so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ
đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột
của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì
điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm
vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi
tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực
tại phủ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả
một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác”
trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi
chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật
sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn
cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng
tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ
tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các
câu hỏi tu từ ở đây đc ND sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của
Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn.
Hai câu thơi day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái
vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán
tất cả:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác
hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán
chường muốn buôn tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách
làng chơi (số nhìu) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng
nỗi cô đơn của nàng. Từ xuân ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc
lứa đôi nhưng với TK sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa
xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của
cuộc đời người kỉ nữ mua vui. Từ mặc ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho
mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của TK nhưng
không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong – hoa – tuyết –
nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa
hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ
kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy
màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con
người: cầm – kì – thi – họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn
nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên
đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát.
Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất
nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì
thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thàn
hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người
thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái.. Khi gió
tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn
ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày
xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi
phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi
đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan
tỏa sang cảnh vật :
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ lung, và bằng tài năng kì diệu, ND đã viết
nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình.
Từ một trường hợp cụ thể, thơ ND đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành
chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích
vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó
lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của TK
cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động
bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước
vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi long, cảm xúc của TK,
khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đề trở nên u buồn, tăm tối,
nhuộm màu tang thương.
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của TK được ND thể hiện một cách
tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài
nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc
cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh.
Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn
say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ,
Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được
cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên
ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã
rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai
để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một
tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại
khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy
sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của TK giàu long tự trọng coi
trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.
Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính
cách của TK. Thể hiện tập trung tư tưỡng nhân văn của tác giả: cảm
thương trước bi kịch của K, khẳng định nhân cách đẹp đẹ của nàng và
khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân.Thể hiện nỗi
thương mình của TK, ND cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm
nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào
nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả-nhân vật- người đọc.