Đoạn trích Chí Khí Anh Hùng Nguyễn Du
I - GỢI DẪN
1. Kiều bị lừa vào lầu xanh lần thứ hai, tâm trạng nàng vô cùng
đau khổ và tuyệt vọng. May sao Từ Hải đột ngột xuất hiện, đã coi Kiều
như một tri kỉ và cứu nàng ra khỏi lầu xanh. Hai người đều thuộc hạng
người bị xã hội đương thời coi thường (một gái giang hồ và một là giặc)
đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một tình cảm gắn bó của đôi tri kỉ.
Từ Hải đánh giá cao sự thông minh, khéo léo và nhạy cảm của Kiều. Kiều
nhận ra Từ là đấng anh hùng hiếm có trong thiên hạ, là người duy nhất có
thể giải thoát cho nàng. Nhưng dù yêu quý, trân trọng Từ Hải, Kiều cũng
không thể giữ chân bậc anh hùng cái thế. Đã đến lúc Kiều để Từ Hải ra
đi lập sự nghiệp anh hùng.
2. Cách đọc
Đọc chậm, thể hiện chí khí, khát khao vẫy vùng của nhân vật Từ Hải một nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du.
II - KIẾN THỨC CƠ BẢN
Từ Hải xuất hiện trong tác phẩm, trước hết là một anh hùng cái
thế, đầu đội trời chân đạp đất. Khi cứu Kiều ra khỏi lầu xanh, là vì
việc nghĩa, là vì trọng Kiều như một tri kỉ. Nhưng khi kết duyên cùng
Kiều, Từ thực sự là một người đa tình. Song dẫu đa tình, Từ không quên
mình là một tráng sĩ. Trong xã hội phong kiến, đã làm thân nam nhi phải
có chí vẫy vùng giữa đất trời cao rộng. Từ Hải là một bậc anh hùng có
chí lớn và có nghị lực để đạt được mục đích cao đẹp của bản thân. Chính
vì thế, tuy khi đang sống với Kiều những ngày tháng thực sự êm đềm, hạnh
phúc nhưng Từ không quên chí hướng của bản thân. Đương nồng nàn hạnh
phúc, chợt "động lòng bốn phương", thế là toàn bộ tâm trí hướng về "trời
bể mênh mang", với "thanh gươm yên ngựa" lên đường đi thẳng.
Không gian trong hai câu thứ ba và thứ tư (trời bể mênh mang, con
đường thẳng) đã thể hiện rõ chí khí anh hùng của Từ Hải.
Tác giả dựng lên hình ảnh "Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng
dong" rồi mới để cho Từ Hải và Thuý Kiều nói lời tiễn biệt. Liệu có gì
phi lôgíc không ? Không, vì hai chữ "thẳng giong" có người giải thích là
"vội lời", chứ không phải lên đường đi thẳng rồi mới nói thì vô lí. Vậy
có thể hình dung, Từ Hải lên yên ngựa rồi mới nói những lời chia biệt
với Thuý Kiều. Và, có thể khẳng định cuộc chia biệt này khác hẳn hai lần
trước khi Kiều từ biệt Kim Trọng và Thúc Sinh. Kiều tiễn biệt Kim Trọng
là tiễn biệt người yêu về quê hộ tang chú, có sự nhớ nhung của một
người đang yêu mối tình đầu say đắm mà phải xa cách. Khi chia tay Thúc
Sinh để chàng về quê xin phép Hoạn Thư cho Kiều được làm vợ lẽ, hi vọng
gặp lại rất mong manh vì cả hai đều biết tính Hoạn Thư, do đó gặp lại
được là rất khó khăn. Chia tay Từ Hải là chia tay người anh hùng để
chàng thoả chí vẫy vùng bốn biển. Do vậy, tính chất ba cuộc chia biệt là
khác hẳn nhau.
Lời Từ Hải nói với Kiều lúc chia tay thể hiện rõ nét tính cách
nhân vật. Thứ nhất, Từ Hải là người có chí khí phi thường. Khi chia tay,
thấy Kiều nói :
Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi".
Từ Hải đã đáp lại rằng :
Từ rằng : "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình".
Trong lời đáp ấy bao hàm lời dặn dò và niềm tin mà Từ Hải gửi gắm
nơi Thuý Kiều. Chàng vừa mong Kiều hiểu mình, đã là tri kỉ thì chia sẻ
mọi điều trong cuộc sống, vừa động viên, tin tưởng Kiều sẽ vượt qua sự
bịn rịn của một nữ nhi thường tình để làm vợ một người anh hùng. Chàng
muốn lập công, có được sự nghiệp vẻ vang rồi đón Kiều về nhà chồng trong
danh dự :
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia".
Quả là lời chia biệt của một người anh hùng có chí lớn, không bịn
rịn một cách yếu đuối như Thúc Sinh khi chia tay Kiều. Sự nghiệp anh
hùng đối với Từ Hải là ý nghĩa của sự sống. Thêm nữa, chàng nghĩ có làm
được như vậy mới xứng đáng với sự gửi gắm niềm tin, với sự trông cậy của
người đẹp.
Thứ hai, Từ Hải là người rất tự tin trong cuộc sống :
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì !
Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ Hải trong lúc
chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống. Chàng
tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả một cơ
đồ lớn.
Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn từ Hán
Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử dụng điển
cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái tạo theo
khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu tả, Nguyễn
Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.
Về từ ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác
giả dùng từ này và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Trượng phu nghĩa là
người đàn ông có chí khí lớn. Thứ hai là từ thoắt trong cặp câu :
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Nếu là người không có chí khí, không có bản lĩnh thì trong lúc
hạnh phúc vợ chồng đang nồng ấm, người ta dễ quên những việc khác. Nhưng
Từ Hải thì khác, ngay khi đang hạnh phúc, chàng "thoắt" nhớ đến mục
đích, chí hướng của đời mình. Tất nhiên chí khí đó phù hợp bản chất của
Từ, thêm nữa, Từ nghĩ thực hiện được chí lớn thì xứng đáng với niềm tin
yêu và trân trọng mà Thuý Kiều dành cho mình. Cụm từ động lòng bốn
phương theo Tản Đà là "động bụng nghĩ đến bốn phương" cho thấy Từ Hải
"không phải là người một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của
trời đất, của bốn phương" (Hoài Thanh). Hai chữ dứt áo trong Quyết lời
dứt áo ra đi thể hiện được phong cách mạnh mẽ, phi thường của đấng
trượng phu trong lúc chia biệt.
Về hình ảnh, "Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" là một hình ảnh so
sánh thật đẹp đẽ và đầy ý nghĩa. Tác giả muốn ví Từ Hải như chim bằng
cưỡi gió bay cao, bay xa ngoài biển lớn. Không chỉ thế, trong câu thơ
còn diễn tả được tâm trạng của con người khi được thoả chí tung hoành
"diễn tả một cách khoái trá giây lát con người phi thường rời khỏi nơi
tiễn biệt". Nói thế không có nghĩa là Từ Hải không buồn khi xa Thuý Kiều
mà chỉ khẳng định rõ hơn chí khí của nhân vật. Hình ảnh : "Thanh gươm
yên ngựa lên đường thẳng dong" cho thấy chàng lên ngựa rồi mới nói lời
tiễn biệt, điều đó diễn tả được cái cốt cách phi thường của chàng, của
một đấng trượng phu trong xã hội phong kiến.
Về lời miêu tả và ngôn ngữ đối thoại cũng có những nét đặc biệt.
Kiều biết Từ Hải ra đi trong tình cảnh "bốn bể không nhà" nhưng vẫn
nguyện đi theo. Chữ "tòng" không chỉ giản đơn như trong sách vở của Nho
giáo rằng phận nữ nhi phải "xuất giá tòng phu" mà còn bao hàm ý thức sẻ
chia nhiệm vụ, đồng lòng tiếp sức cho Từ khi Từ gặp khó khăn trong cuộc
sống. Từ Hải nói rằng sao Kiều chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình
không có ý chê Kiều nặng nề mà chỉ là mong mỏi Kiều cứng rắn hơn để làm
vợ một người anh hùng. Từ nói ngày về sẽ có 10 vạn tinh binh, Kiều tin
tưởng Từ Hải. Điều đó càng chứng tỏ hai người quả là tâm đầu ý hợp, tri
kỉ, tri âm.
Đoạn trích ngợi ca chí khí anh hùng của nhân vật Từ Hải và khẳng
định lại một lần nữa tình cảm của Thuý Kiều và Từ Hải là tình tri kỉ,
tri âm chứ không chỉ đơn thuần là tình nghĩa vợ chồng.